Bệnh bạch cầu là một bệnh ung thư của các tế bào máu, được phát hiện vào thời gian
Trong khi nguyên nhân bệnh ung thư máu chính xác là không được biết, yếu tố nguy cơ đã được xác định.
Dấu ấn ung thư còn được sử dụng để theo dõi điều trị. Trước khi điều trị sẽ làm xét nghiệm, ví dụ trước mổ chỉ số là 100 đơn vị, thì sau khi mổ sẽ còn một-hai đơn vị. Nhưng sau mổ một thời gian, xét nghiệm lại, thấy chỉ số tăng cao là báo hiệu có di căn. Xét nghiệm dấu ấn ung thư có giá 50.000 - 100.000đ/chỉ số ung thư.Trong khi nguyên nhân bệnh ung thư máu chính xác là không được biết, yếu tố nguy cơ đã được xác định.
Điều trị ung thư máu có rất nhiều phương pháp nhưng cách điều trị tốt nhất hiện này đó là ghép tủy. Ngành ghép tủy thực sự phát triển bắt đầu sau sự bùng nổ của năng lượng và vũ khí hạt nhân năm 1945. Mặc dù trước đó đã có một vài nỗ lực của trong việc dùng tủy xương của người hiến đưa vào cơ thể người nhận là những bệnh nhân bị thiếu máu hay ung thư máu bằng đường uống, tiêm bắp hay truyền tĩnh mạch.
Các triệu chứng thường gặp của bệnh bạch cầu mãn tính hoặc cấp tính có thể bao gồm đau ở xương hoặc khớp, sưng hạch bạch huyết thường không đau, sốt hoặc đổ mồ hôi đêm, cảm giác yếu hay mệt mỏi, chảy máu và bầm tím dễ dàng, thường xuyên nhiễm trùng, sưng hoặc khó chịu ở bụng , và giảm cân hoặc mất cảm giác ngon miệng
Bệnh bạch cầu được chia nhóm theo cách nhanh chóng bệnh phát triển (cấp tính hoặc mãn tính) cũng như bởi các loại tế bào máu bị ảnh hưởng (lymphocyte hay myelocytes). Bốn loại chính của bệnh bạch cầu lymphocytic bao gồm bệnh bạch cầu cấp (ALL), bệnh bạch cầu lymphocytic mãn tính (CLL), bệnh bạch cầu tủy cấp tính (AML), và bệnh bạch cầu tủy mãn tính (CML).
Những người bị bệnh bạch cầu đang tăng lên tại đáng kể nguy cơ phát triển các bệnh nhiễm trùng, thiếu máu, và chảy máu. Các triệu chứng và dấu hiệu ung thư máu khác bao gồm dễ bầm tím, giảm cân, ra mồ hôi đêm, sốt không rõ nguyên nhân.
Việc chẩn đoán bệnh bạch cầu được hỗ trợ bởi kết quả của lịch sử y tế, kiểm tra, và kiểm tra máu và tủy xương mẫu dưới kính hiển vi.
Điều trị bệnh bạch cầu phụ thuộc vào loại bệnh bạch cầu, một số tính năng của các tế bào ung thư bạch cầu, mức độ của bệnh, và lịch sử trước khi điều trị, cũng như tuổi tác và sức khỏe của bệnh nhân.
Hầu hết các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu được điều trị bằng hóa trị liệu. Một số bệnh nhân cũng có thể có xạ trị và / hoặc cấy ghép tủy xương.
Không có cách nào biết để ngăn ngừa bệnh bạch cầu.
Tiên lượng của bệnh bạch cầu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm cả tuổi tác của bệnh nhân, các loại bệnh bạch cầu, và mức độ mà các bệnh ung thư đã lan rộng. Sử dụng xét nghiệm máu tìm ung thư có dấu ấn sinh học hoặc dấu ấn ung thư trong máu. Người ta dùng nó như phương tiện phát hiện, sàng lọc ung thư tiền liệt tuyến, bao tử, tụy tạng, máu… và một số ung thư khác như gan, phổi, tế bào hắc tố (nốt ruồi đen), buồng trứng… Xét nghiệm này có khả năng phát hiện ung thư giai đoạn rất sớm.
Tuy nhiên, xét nghiệm máu không thể hiện 100% bản chất ung thư, vì có thể cho kết quả dương tính giả do máu có những chất tương đồng với khối u. Để xác định có khối u ung thư hay không, thường phải làm lại xét nghiệm sau một thời gian ba-sáu tháng… Nếu đúng là có khối u ung thư thì các chỉ số này càng tăng theo tỷ lệ kích thước khối u. Khi các chỉ số nhích lên sẽ kết hợp với các chẩn đoán hình ảnh khác để xác định “đối tượng”. Ví dụ chụp CT toàn thân, chụp hình cộng hưởng khuếch tán toàn thân phát hiện ung thư giai đoạn rất sớm. Nếu là dương tính giả, chỉ số sẽ vọt lên rồi sụt xuống. Việc sử dụng phương pháp chẩn đoán ung thư máu có thể là xét nghiệm máu
Đáng lo nhất là hiện tượng âm tính giả, tức là có ung thư nhưng không phát hiện được, ví dụ ung thư gan không tiết AFP vào máu. Đây là vấn đề nan giải, vì đôi khi bệnh nhân tưởng mình không bệnh, nhưng thật ra bệnh vẫn âm thầm phát triển.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét